PRP trong điều trị thoái hóa khớp

Thoái hóa khớp là bệnh mạn tính ở khớp và cột sống, thường gặp ở người trung niên và người có tuổi, xảy ra ở mọi chủng tộc, mọi thành phần của xã hội, ở tất cả các nước và nữ nhiều hơn nam giới.
Thống kê của WHO cho thấy có 0,3 – 0,5% dân số bị bệnh lý về khớp thì trong đó có 20% thoái hóa khớp. Ở Mỹ, 80% trên 55 tuổi bị thoái hóa khớp. Ở Pháp, thoái hóa khớp chiếm 28% số bệnh về xương khớp. Ở Việt Nam, thoái hóa khớp chiếm 10,41% các bệnh về xương khớp.
Thoái hóa khớp là bệnh lý do hậu quả của quá trình tích tuổi và chịu lực tác động thường xuyên lên khớp. Thoái hóa khớp gây đau và biến đổi cấu trúc khớp dẫn đến tàn phế làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và còn là gánh nặng cho kinh tế gia đình và toàn bộ xã hội. Thương tổn cơ bản là sự thoái hóa của sụn khớp, sau đó là những thay đổi của phần xương dưới sụn và của màng hoạt dịch. Thoái hóa khớp nếu được chẩn đoán và điều trị sớm có thể làm chậm phát triển của bệnh, giảm triệu chứng đau đớn giúp duy trì cuộc sống hoạt động.

Thoái hóa khớp thường có các biểu hiện: Đau ở vị trí bị thoái hóa, đau tăng khi vận động hay thay đổi tư thế. Hạn chế vận động, có thể có dấu hiệu phá gỉ khớp vào buổi sáng hay lúc mới bắt đầu hoạt động. Trên X quang có thể có dấu hiệu hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, mọc gai xương.

Điều trị thoái hóa khớp theo Y học hiện đại (YHHĐ)
Không có thuốc điều trị quá trình thoái hóa, chỉ có thể điều trị triệu chứng, phục hồi chức năng và phòng bệnh bằng cách ngăn ngừa, hạn chế các tác động cơ giới quá mức ở khớp và cột sống.

Các biện pháp không dùng thuốc gồm: Nghỉ ngơi, tránh làm các động tác nặng, gắng sức; Vật lý trị liệu như chườm nóng, siêu âm, hồng ngoại, xoa bóp, kéo dãn cột sống, tập vận động.

Các biện pháp dùng thuốc: Thuốc giảm đau (Paracetamol 0,5g x 2-4 viên/ngày), thuốc chống viêm (Meloxicam 7,5mg x 2 viên/ngày), tiêm HA (acid hyalorunic – dịch khớp) giúp bôi trơn ổ khớp.

Điều trị bằng ngoại khoa: Đối với trường hợp có chèn ép thần kinh nặng, kéo dài, không giải quyết được bằng điều trị nội khoa.
Phòng ngừa thoái hóa khớp: Tránh các động tác quá mạnh, đột ngột, sai tư thế khi lao động, làm việc. Điều chỉnh cân nặng ở trọng lượng lý tưởng. Phát hiện và sửa chữa sớm các dị dạng xương khớp và cột sống.
ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP BẰNG HUYẾT TƯƠNG GIÀU TIỂU CẦU (PLATELET RICH PLASMA-PRP)
Điều trị thoái hóa khớp bằng PRP hướng tới 4 mục tiêu chính:
KHÁNG VIÊM – GIẢM ĐAU – DUY TRÌ – AN TOÀN

Từ 20 năm nay, liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet Rich Plasma- PRP) tự thân đã được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng. Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân là huyết tương sau khi tách chiết từ một lượng máu của chính bệnh nhân có nồng độ tiểu cầu cao gấp nhiều lần so với trong máu bình thường. Sở dĩ cần một nồng độ lớn tiểu cầu trong PRP để điều trị vì vai trò quan trọng và chủ yếu của tiểu cầu trong liệu pháp PRP. Khi tiểu cầu được hoạt hóa sẽ dẫn đến quá trình ly giải các hạt α chứa bên trong tiểu cầu, từ đó giải phóng ra nhiều loại protein là các cytokine kháng viêm (Interleukins (IL-6, IL-7, IL-8) và hàng chục các yếu tố tăng trưởng (growth factor) có vai trò quan trọng đối với quá trình làm lành vết thương. Các protein trên sẽ gắn vào các thụ thể (receptor) của các tế bào đích tương ứng như tế bào gốc nguồn gốc trung mô, nguyên bào xương, nguyên bào sợi, tế bào biểu mô, tế bào nội mô… Sự gắn kết này sẽ hoạt hóa một loại protein dẫn truyền tín hiệu nội bào để truyền thông tin tới gen đặc hiệu tương ứng, kết quả là tạo nên sự tăng sinh tế bào, hình thành chất căn bản, các sản phẩm dạng xương, sụn, tổng hợp collagen…tham gia vào quá trình sửa chữa, tái tạo tổ chức tổn thương sụn, xương, phần mềm… cải thiện tình trạng thoái hóa của bệnh nhân. Dấu hiệu đau sẽ giảm rõ rệt sau 21 ngày kể từ mũi tiêm đầu tiên (giảm đau).

Trên thế giới, trong khoảng vài năm trở lại đây, nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ PRP tự thân tiêm trực tiếp vào trong khớp là một liệu pháp có triển vọng trong điều trị thoái hóa khớp gối với cơ chế là PRP chứa chất chống viêm và các yếu tố tăng trưởng thúc đẩy sự tăng sinh của sụn khớp. Nghiên cứu của tác giả Sampson và cộng sự trên các bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát và thứ phát: các bệnh nhân được tiêm 3 mũi PRP tự thân khớp gối tổn thương với liệu trình cách 4 tuần tiêm một mũi. Nhóm nghiên cứu chỉ dùng acetaminophen để giảm đau khi đau nhiều mà không dùng kèm các thuốc cũng như các biện pháp khác vẫn thường dùng để điều trị bệnh thoái hóa. Kết quả: sau 1 năm điều trị, 61,5% bệnh nhân cải thiện cả hai thang điểm đau VAS (Visual Analog Scale) và thang điểm KOOS (Knee injury and Osteoarthritis Outcome Score) và hài lòng với liệu trình điều trị. 6 tháng sau điều trị, một số bệnh nhân có sự cải thiện bề dày sụn khớp khi đo trên siêu âm chứng tỏ liệu pháp tác động tích cực đến sự tăng sinh sụn khớp. Các tai biến, tác dụng phụ hầu như không có ngoại trừ một số bệnh nhân có cảm giác đau tăng tại chỗ ít ngày sau tiêm.

Một nghiên cứu khác của tác giả Kon và cộng sự trên 100 bệnh nhân thoái hóa khớp gối với 115 khớp được tiêm PRP. Mỗi khớp gối được tiêm 3 mũi PRP tự thân theo liệu trình cách 3 tuần tiêm 1 mũi. Các bệnh nhân trong nghiên cứu được lượng giá thay đổi trên lâm sàng bằng thang điểm IKDC (International Knee Documentation Committee), chỉ số EQ VAS (Emotional Quotient VAS) và mức độ hài lòng của bệnh nhân tại các thời điểm trước khi điều trị, kết thúc điều trị (2 tháng sau mũi tiêm đầu), 6 tháng và 12 tháng sau mũi tiêm đầu cũng như các tác dụng phụ, tai biến có thể gặp. Kết quả 80% bày tỏ sự hài lòng với kết quả điều trị. Các chỉ số IKDC, EQ VAS đều cải thiện, trong đó cải thiện rõ ở thời điểm kết thúc điều trị đến 6 tháng sau, sau đó kết quả cải thiện có xu hướng giảm hơn trong thời gian từ 6- 12 tháng nhưng vẫn cao hơn có ý nghĩa so với thời điểm trước điều trị. Trong nghiên cứu này không có tác dụng phụ nghiêm trọng, ngoại trừ một trường hợp khớp gối sưng đau rõ rệt sau tiêm nhưng tự giảm đau dần sau 2 tuần. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nhẹ thường gặp trong 2 hay 3 ngày đầu tiên, thường tự khỏi hoặc sau uống thuốc giảm đau acetaminophen liều thấp, ngắn ngày.
Một nghiên cứu khác cũng của tác giả Kon và cộng sự trên 150 bệnh nhân được chia làm 3 nhóm: nhóm 1 gồm 50 bệnh nhân điều trị PRP, nhóm 2 gồm 50 bệnh nhân được điều trị acid hyalorunic trọng lượng phân tử cao (HHA- Hight weight hyalorunic acid) và nhóm 3 gồm 50 bệnh nhân được điều trị acid hyalorunic trọng lượng phân tử thấp (LHA- Low weight hyalorunic acid). Các chỉ số về tuổi, giới, tiền sử bệnh… không có sự khác biệt giữa 3 nhóm. Khi đánh giá tại thời điểm 2 tháng sau mũi tiêm đầu, kết quả tương đương ở nhóm điều trị PRP và LHA, trong khi nhóm điều trị HHA có sự cải thiện kém hơn. Theo dõi từ thời điểm 2 đến 6 tháng thì nhóm điều trị PRP có kết quả tốt hơn rõ ràng so với nhóm điều trị LHA và HHA (kết quả ở nhóm này kém nhất). Mức độ hài lòng của nhóm điều trị PRP là 82% so với 64% trong nhóm điều trị LHA và 66 % trong nhóm điều trị HHA. Như vậy kết quả điều trị bằng PRP tốt hơn và ổn định hơn (thời gian duy trì kéo dài hơn) so với điều trị bằng HA.

Nghiên cứu của Sanchez và cộng sự trên 60 bệnh nhân thoái hóa khớp gối chia làm hai nhóm đồng nhất về tuổi, giới, chỉ số BMI và phân bố mức độ nặng trên Xquang: 30 bệnh nhân nhóm nghiên cứu điều trị PRP với liệu trình 3 mũi, mỗi tuần tiêm khớp gối 1 mũi. 30 bệnh nhân nhóm chứng được tiêm HA cũng với liệu trình 3 mũi như trên. Kết quả sau 2 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm điều trị PRP cải thiện triệu chứng đau thành công cao hơn so với nhóm điều trị HA. Các tác dụng phụ được ghi nhận là đau nhẹ, phản ứng viêm và có thể tràn dịch khớp gối sau tiêm được ghi nhận ở một số bệnh nhân thuộc cả hai nhóm, không có biến chứng nặng.
Tóm lại, với tác động vào cơ chế bệnh sinh của bệnh thoái hóa khớp, kỹ thuật tách chiết PRP đơn giản, an toàn do lấy máu tự thân, liệu pháp điều trị PRP đang hứa hẹn là một trong những lựa chọn điều trị tốt cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối. Nó cho kết quả tốt hơn và lâu dài hơn với điều trị bằng tiêm tại chỗ chất nhờn acid hyalorunic, một liệu pháp điều trị được coi là tiêu chuẩn và đang được sử dụng rộng rãi hiện nay.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *